Shippo là một sản phẩm thủ công kết hợp nhiều yếu tố. Sự hấp dẫn của đồ Shippo là màu sắc sặc sỡ, đẹp mắt, độ bóng và thiết kế phong phú. Một trong những nét quyến rũ của nó là các kết cấu khác nhau tùy thuộc vào chất liệu. Hơn nữa, đồ Shippo được tạo ra bằng cách kết hợp nhiều yếu tố khác nhau như vật liệu, thiết kế, nhiệt độ và thời gian nung và là một sản phẩm thủ công có tính thẩm mỹ phong phú thể hiện kỹ năng và sự nhạy cảm của người chế tạo.

1. Lịch sử hình thành:

Shippo là 1 loại Cloisonne có nguồn gốc từ phương tây. Du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc ( ở Trung Quốc gọi là Pháp Lang hoặc Pháp Lam ) thế kỷ 7. Trong thời kỳ đầu, các đồ đồng shippo chỉ được chế tác ở quy mô nhỏ trong các gia đình nghệ nhân. Do tính chất kỳ công, tinh xảo và sử dụng các nguyên liệu quý hiếm như vàng, bạc, đồng để chế tác, đồ đồng shippo chỉ dùng cho giới quý tộc, giàu có để làm quà tặng hoặc trang trí trong phòng khách để thể hiện đẳng cấp của mình.

Các thương nhân Trung Hoa khi đến Nhật Bản đã nhanh chóng nhận thấy đồ đồng shippo của Nhật Bản thực sự là kiệt tác có giá trị, thậm chí còn vượt cả đồ kháp ti pháp lang của Trung Hoa. Vì vậy, đồ đồng shippo của Nhật Bản lại trở thành một mặt hàng được ưa chuộng tại Trung Hoa, nơi đã đưa nghệ thuật shippo đến đất nước Mặt Trời mọc. Thời gian và sự phát triển đã biến Shippo trở thành một phần quan trọng trong nghệ thuật thủ công của Nhật Bản. Trong suốt hàng trăm năm, nghệ nhân Shippo đã truyền thụ, duy trì và phát triển sự tinh xảo của nghệ thuật này qua nhiều thế hệ.

Giai đoạn 1890-1910 được coi là giai đoạn hoàng kim của Shippo Nhật Bản, khi công ty Ando Cloisonne mang sản phẩm đi tham dự hội chợ thế giới và dành được rất nhiều giải thưởng. Shippo của Nhật Bản thời đó được coi là “vô song” nhờ những thành tựu mới trong thiết kế và màu sắc.

2. Quy trình chế tác:

Nghệ nhân Shippo phải trải qua quá trình sản xuất cực kỳ tinh tế và đòi hỏi sự kiên nhẫn. Loại hình nghệ thuật tráng men lên đồ đồng, bạc, vàng rất đa dạng.

1. Phôi bình kim loại

Chín mươi chín phần trăm các phôi bình Shippo được làm bằng đồng. Nhiều chiếc còn được mạ bạc sau khi tráng men. Tất cả các mối nối nối đều được hàn bằng đèn khò. Sau khi cắt tấm đồng theo kích thước mong muốn, dùng vồ đập vào để tạo đường cong và tạo hình: đĩa, bình hoa, bình mini, xông trầm… Sau đó chuyển sang quá trình phủ men vào mặt sau của sản phẩm, được gọi là “Ura-biki”. Nếu chỉ tráng men cho mặt trước thì độ cân bằng sẽ rất thấp và dễ bị nứt nên cần phải tráng men cả mặt trước và mặt sau của lõi.

2. Chuẩn bị men

Nhiều loại bột men được mua từ các nhà sản xuất Nhật Bản. Công việc chuẩn bị men này rất tốn thời gian. Đầu tiên, chất tạo màu được trộn với men trợ dung hoặc men trắng và hỗn hợp này được trải lên một lớp silicat (cát) trên đĩa bằng đất nung. Chúng được làm nóng trong lò khoảng 20 phút ở 815°C cho đến khi nó tan chảy thành một khối như thủy tinh, rồi được làm nguội với nước khiến nó vỡ thành những mảnh kính nhỏ hơn. Sau đó đập thành những mảnh nhỏ hơn bằng tay và nghiền đến khí hạt có kích thước 0,18mm hoặc nhỏ hơn. Quá trình nung và nghiền này được lặp lại hai lần nữa để đảm bảo các thành phần được trộn đều và màu sắc đống nhất. Nếu màu sắc không đạt chuẩn, người thợ phải bắt đầu lại toàn bộ quá trình, thêm hoặc bớt các chất tạo màu cho đến khi đúng mới thôi. Để lọc loại bỏ cặn bẩn ra khỏi một mẻ men lớn, họ trộn nó vào những chiếc đĩa nhựa lớn với nhiều nước, khuấy đều và dùng máy rung để rung hỗn hợp này rồi để các hạt lắng xuống. Nước và cặn được đổ vào một cái thùng lớn và sau khi cặn men đã lắng xuống dưới, nước được hút ra và đổ đi.

3. Uốn dây

Dây bạc được sử dụng thường là loại rất mỏng. Dây đồng thau thì được sử dụng cho các mẫu thiết kế “cổ điển”. Mỗi cuộn dây được cắt thành các đoạn dài 60cm và duỗi thẳng bằng cách ngậm một đầu vào răng và kéo đầu kia bằng một chiếc kìm cho đến khi nó căng và thẳng. Sợi dây được tạo hình bằng tay và nhíp nhọn. Để tạo nhiều hình dạng, chẳng hạn như đối với mẫu riêng biệt thì cũng có những chiếc kìm đặc biệt. Người thợ uốn dây bậc thầy khéo léo đến mức anh ta có thể nhìn vào một bản vẽ và tạo ra phiên bản bằng dây mà không cần so dây vào bản vẽ. Dây bạc được gắn lên phôi bằng chất kết dính được gọi là Shirako (rễ cây lan tím khô nghiền) và nước đun sôi theo tỷ lệ 1:15. Nó có khả năng chịu nhiệt tốt và khi đốt thì không để lại khói và muội than. Nếu độ bám dính của Shirato không đủ, họ có thể dùng sáp.

4. Keo tráng men

Keo “Funori” được làm từ một loại rong biển đặc biệt trộn với nước. Chúng được đun sôi cùng nhau trong một giờ sau đó lọc và lọc, vắt qua vải cotton. Điều này đã loại bỏ vỏ sò vụn và rác. Funori được trộn lẫn với nước và bột men để chuẩn bị cho quá trình tráng men ướt.

5. Tráng men ướt

Các thanh tre phẳng, có đầu tròn với các kích cỡ khác nhau, được sử dụng để tráng men ướt. Một chiếc kim nhỏ cắm vào cán tre được dùng để lấp đầy những khoảng trống nhỏ. Men ướt được giữ trong ly rượu sake. Những dụng cụ này đủ mỏng để có thể uốn cong cho phù hợp với đường cong của các mẫu thiết kế. Men ướt tiếp giáp với men khô sẽ gây ra vẩn đục. Vì vậy, trước khi nung phải xịt nước vào từng sản phẩm cho đến khi men ngấm đều, xịt nhiều quá sẽ làm men bị bong ra. Sau khi phun, họ giữ cho các sản phẩm di chuyển liên tục theo hình số 8 trong khoảng hai phút để giữ cho men không bị đọng lại ở một điểm. Sau đó, chúng sẽ được bọc trong những miếng vải bông sạch, tinh khiết và ép nhẹ để hút nước.

6. Rây khô

Sau khi phun keo funori pha loãng, bột men khô được rắc lên qua một cái rây, cách truyền thống là sẽ dùng miệng để thổi qua 1 công cụ dạng ống. Bột men và keo sẽ được phun hai hoặc ba lớp trước mỗi lần nung. Đây là 1 kỹ thuật sử dụng cho 1 vài trường hợp nhất định.

7. Nung

Các sản phẩm được để khô trong không khí qua đêm. Sau đó được cho vào lò nung. Chúng được làm nóng từ 2 phía, cả nắp và đáy lò cung cấp nhiệt đều. Nhiệt độ thường dùng trong khoảng 700º- 850º C. Khi nung, thể tích men giảm và bề mặt men sẽ bị thấp hơn nên quá trình tráng men và nung được lặp lại từ 3 đến 7 lần.

8. Mài và đánh bóng.

Tùy thuộc vào từng sản phẩm, hai đến tám loại đá mài được sử dụng để mài nó, sau đó là một đến ba loại bột dùng để đánh bóng. Sau lần mài cuối cùng, sản phẩm được đưa đến phòng bōshūko để đánh bóng lần cuối. Bōshūko là một hợp chất làm sạch bóng tự nhiên giống như xeri oxit. Họ sẽ tráng sản phẩm bằng hỗn hợp sệt làm từ bōshūko và nước, sau đó đánh bóng bằng máy đánh bóng. Bōshūko sẽ làm bóng cả phần men và kim loại khiến nó trông rất mềm mại nhưng sáng bóng. Bước này mất khá nhiều công sức, sự tỉ mỉ và thời gian người thợ thủ công giống như bước vào một quá trình thiền định vậy. Lớp đánh bóng phía ngoài với các bong bóng khí hoặc cặn bẩn trong men (quá nhỏ không thể nhìn được bằng mắt) thì một vài lỗ nhỏ li ti thường không thể tránh khỏi. Tất cả các chi tiết hoàn thiện: lớp mạ, viền đồ trang sức, viền bát, viền hộp, viền bình hoa, khung trên bình phong… đều do một thợ thủ công khác thực hiện. Sau khi hoàn thành tất cả công việc này, tác phẩm đã được chuyển đến phòng trưng bày.

9. Đóng viền, khung và hoàn thiện

Tất cả các chi tiết hoàn thiện: lớp mạ, viền đồ trang sức, viền bát, viền hộp, viền bình hoa, khung trên bình phong… đều do một thợ thủ công khác thực hiện.

Sau khi hoàn thành tất cả công việc này, tác phẩm đã được chuyển đến phòng trưng bày.

Quá trình này đòi hỏi kiên nhẫn và tài năng thủ công, và mỗi sản phẩm Shippo đều là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Là quốc gia đến sau trong việc tiếp nhận nghệ thuật kháp ti pháp lang song nghệ thuật shippo của Nhật Bản được các nhà chuyên môn đánh giá đạt đến độ thượng thừa về kỹ thuật và mỹ thuật. Phải chăng tính cách của người Nhật Bản chính là yếu tố quyết định sự thành công nghệ thuật shippo. Đó chính là sự tỉ mỉ, cẩn thận và kiên trì mà mỗi nghệ nhân chế tác shippo đều cần phải có.

Liên hệ ZaloGọi ngayMessenger